ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 86 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM (14/10/1930 – 14/10/2016)

HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM BCH HND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG * CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc    Hải Phòng, ngày 30 tháng 9 năm 2016     ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 86 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM (14/10/1930 – 14/10/2016)   I. SỰ RA ĐỜI CỦA NÔNG HỘI ĐỎ, TIỀN THÂN CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM NGÀY NAY Đầu năm 1930, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc), trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua ngày 3 tháng 2 năm 1930 đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân: Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến”; Đồng thời, Đảng nhấn mạnh “Nông dân là lực lượng to lớn của cách mạng”. Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất. Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng 10 năm 1930 tại Hương Cảng đã thông qua bản Luận cương chính trị, Luận cương nêu rõ: “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số ở Đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng đầu và cùng với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền lãnh đạo dân cày được”. Cùng với việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ “phải chỉnh đốn Nông Hội lại cho có hệ thống theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông Hội” và thông qua Điều lệ Tổng Nông Hội Đông Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích nhằm “Thống nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa”. Điều lệ Tổng Nông Hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông Hội nào thừa nhận mục đích, Điều lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông Hội Đông Dương và nộp Hội phí thì được nhận làm hội viên”; trọng tâm là xây dựng tổ chức Nông Hội, cơ sở của Nông Hội là làng. Tổ chức phải theo hệ thống dọc: từ tổng Tổng Nông Hội, huyện Tổng Nông Hội, tỉnh Tổng Nông Hội, xứ Tổng Nông Hội, Đông Dương Tổng Nông Hội. Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông Hội làng được thông qua. Mục đích của Nông Hội làng là đoàn kết hết thảy bần và trung nông trong làng, liên hiệp với nông dân và công nhân các nơi trong nước để đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của nông dân và thực hiện cách mạng ruộng đất. II. HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM VÀ CUỘC VẬN ĐỘNG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 – 1945) Ngày 20 tháng 3 năm 1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông Hội đỏ, khẳng định giai cấp nông dân “là một lực lượng chính của cách mạng”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Hai, tháng 3 năm 1931 nhấn mạnh: Cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông Hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, đồng thời chỉ rõ: trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế, địa tô, chống nạn thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương lừa dối, chống chiến tranh…. Thực hiện Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ Hai, các tổ chức Nông Hội được củng cố và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân, đồng thời đề ra phương hướng đấu tranh và những biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình mới. Tháng 3 năm 1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, đề ra đường lối chính trị và phương pháp tổ chức mới, Quyết định lấy tên Nông Hội thay Nông Hội đỏ. Nông dân có tổ chức chính là Nông Hội, có thể tổ chức nhiều hội (nhưng nội dung là Nông Hội). Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông Hội khắp nơi trong nước phát huy vai trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông dân hợp lực với công nhân và nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Trong năm 1937, có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia ruộng công, giảm tô, tức, khất thuế…Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 1938, có 125 cuộc đấu tranh của nông dân với 55.442 người tham gia. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám, tháng 5 năm 1941 khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); Mặt trận các đoàn thể lấy tên là Cứu quốc. “Nông Hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội”, Việt Nam Nông dân cứu quốc hội là một bộ phận của Việt Nam độc lập đồng minh;  “thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp – Nhật”. Điều lệ Việt Nam Nông dân cứu quốc được Hội nghị tháng 5 năm 1941 thông qua  gồm 11 điều. Mục đích liên hiệp hết thảy các hạng nông dân yêu nước để bênh vực quyền lợi hàng ngày cho nông dân và cùng với các đoàn thể khác chuẩn bị đánh Pháp đuổi Nhật giành quyền độc lập lại cho nước Việt Nam. Hội lấy làng, ấp làm cơ sở…có Ban chấp hành hội chỉ huy, làng, tổng, tỉnh, xứ, toàn quốc đều phải cử ra Ban chấp hành, ở cấp bộ nào phải cử đại biểu để thành lập Uỷ ban Việt Minh ở cấp ấy. Từ đầu năm 1941, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, nông dân các dân tộc Cao Bằng đã tổ chức những đoàn thể cứu quốc đầu tiên. Sau đó, nông dân từ miền ngược đến miền xuôi nô nức tham gia vào các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh. Nông dân cứu quốc hội, là lực lượng to lớn của Mặt trận Việt Minh, đồng thời nông dân còn chiếm đại đa số trong hầu hết các tổ chức cứu quốc ở nông thôn như: thanh niên, phụ nữ …tạo nên một lực lượng chính trị rộng lớn, áp đảo kẻ thù. Các tổ chức nông dân cùng với công nhân đã trở thành ”xương sống” của Mặt trận. Năm 1941 – 1942, dưới sự lãnh đạo của Nông Hội, nông dân đã đấu tranh chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu…Từ năm 1943, với khẩu hiệu ”Đoàn kết toàn dân đánh đuổi Nhật – Pháp”. Nông Hội đã đưa nông dân tham gia vào các phong trào sôi nổi với những hình thức như biểu tình chống Nhật, vũ trang đánh Nhật…Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), phong trào ”Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói” đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng lên đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các tổ chức cứu quốc của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng phần đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ sở của phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước hừng hực bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 thành công. III. GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM VÀ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945 – 1975) Ngày 06 tháng 8 năm 1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 02 – NQ/TW về việc thành lập Ban Nông vận Trung ương, gồm 6 đồng chí: Hồ Viết Thắng – Ủy viên Trung ương Đảng làm Trưởng ban, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Mạnh Hồng, Phạm Xuân Di, Trương Việt Hùng, Trần Đào. Trụ sở đầu tiên của Ban Nông vận Trung ương đóng tại Bản Lá (Roòng Khoa), xã Điềm Mặc, (Định Hóa – Thái Nguyên) sau chuyển sang thôn Tân Lập, xã Tân Trào, (Sơn Dương- Tuyên Quang). Nhiệm vụ của Ban Nông vận Trung ương là vận động nông dân: tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã, hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ. Thực hiện chủ trương trên Ban Nông vận Trung ương đã tổ chức Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ nhất họp từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 07 tháng 12 năm 1949 tại thôn Phong Vân, xã Tân Tiến, (Yên Sơn – Tuyên Quang). Dự Hội nghị có đông đảo cán bộ đại diện cho tổ chức Hội Nông dân ba miền Bắc, Trung, Nam. Trong thư gửi Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò và tiềm lực lớn lao của giai cấp nông dân cả nước trong đấu tranh giành chính quyền và sự nghiệp kháng chiến. Hội nghị đã nhất trí thành lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương (sau đổi tên là Ban Liên lạc Nông dân toàn quốc). Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, giai cấp nông dân có một tổ chức Hội ở cấp Trung ương, đáp ứng nguyện vọng của nông dân cả nước. Để tiếp tục đánh giá phong trào nông dân và tổ chức Hội Nông dân, Ban Liên lạc nông dân toàn quốc quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ Hai (tháng 5/1951) tại thôn Quắc, xã Bình Nhân (Chiêm Hoá – Tuyên Quang). Dự Hội nghị có hơn 100 đại biểu đại diện cho giai cấp nông dân cả nước. Hội nghị đánh giá phong trào nông dân, hoạt động của tổ chức Hội và quán triệt nhiệm vụ Hội Nông dân trước yêu cầu nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới toàn thắng. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tới dự và phát biểu trước Hội nghị. Ở miền Bắc: Với tinh thần ”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nông dân đã  hăng hái tham gia “Phong trào thi đua ái quốc sản xuất lập công đề cao chiến sĩ” do Đảng và Chính phủ phát động. Các cấp Hội nông dân đã tập trung vận động thực hiện các phong trào, như: xây dựng “Cánh đồng 5 tấn”“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, phong trào thanh niên nông thôn lên đương tòng quân giết giặc, bảo vệ Tổ quốc đã đóng góp phần quan trọng vào chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hoà bình được lập lại ở Đông Dương, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam: Thực hiện chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng và Chính phủ, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở nông thôn miền Nam, Nông Hội vừa tích cực tổ chức, vận động nông dân chuẩn bị đấu tranh lâu dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian trước khi bàn giao các địa bàn cho đối phương để củng cố sản xuất, ổn định đời sống. Phong trào đấu tranh chính trị của nông dân miền Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ, quyết liệt. Các làng, xã chiến đấu được hình thành và phát triển. Ngày 21/4/1961, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông dân. Tháng 7 năm 1965 Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã ban hành dự thảo Điều lệ hoạt động của Hội nhằm tiếp tục mở rộng hoạt động của các cấp Hội cơ sở, phát triển hội viên và động viên nông dân phát huy vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tháng 1 năm 1969, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nông dân trong tám năm, đồng thời quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch ”Bình định cấp tốc” của địch. Thực hiện chủ trương của Đảng, lấy địa bàn nông thôn làm hướng tiến công chính, đánh mạnh vào kế hoạch “Bình định cấp tốc” của địch, giữ đất, giành dân, Hội Nông dân đã chủ động giáo dục hội viên khắc phục tư tưởng nôn nóng, thoát ly thực tế muốn thắng nhanh, đồng thời vạch rõ nhiệm vụ quan trọng nhất ở nông thôn là phải “giành dân, giành đất, phát triển thế và lực của ta”. Nông dân liên tục nổi dậy phá rã, phá banh nhiều khu dồn dân, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ trên nhiều địa bàn quan trọng. Vùng giải phóng đã mở rộng tới sát Sài Gòn. Ở đồng bằng Nam Bộ, nông dân nổi dậy mở thêm nhiều vùng, nhiều lõm giải phóng, nối các vùng giải phóng thành thế liên hoàn liên xã, liên huyện. Thắng lợi của phong trào nông dân nổi dậy và cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè 1972 đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh ở miền Nam và tiến tới “Tổng tấn công” mùa Xuân năm 1975 giành trọn vẹn thắng lợi, đất nước thống nhất, Nam – Bắc sum họp một nhà. Từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Nông Hội đã phát triển đều khắp, đã tích cực vận động nông dân thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, góp phần đẩy mạnh phong trào thủy lợi, phát triển sản xuất, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, tăng cường đoàn kết trong nông dân, xây dựng chính quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn. IV. HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC Ngày 25 tháng 6 năm 1977, Ban Bí thư ra Thông báo số 16 – TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương. Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (thực chất là một bộ phận của Ban Nông nghiệp Trung ương) nay lập thành một cơ quan độc lập có nhiệm vụ vừa thường xuyên chỉ đạo phong trào thực hiện những nhiệm vụ chính trị của Đảng, vừa giúp Ban Bí thư chuẩn bị Đại hội nông dân toàn quốc. Ban Bí thư chỉ định 3 đồng chí: Ngô Duy Đông (Trưởng ban), 2 đồng chí: Nguyễn Thành Thơ, Nguyễn Công Huế (Phó ban), đồng chí Lê Du là Ủy viên. Ngày 27 tháng 9 năm 1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78 – CT/TƯ về việc tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa nông thôn nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức thống nhất của nông dân lao động trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, lấy tên là Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt NamHội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam được thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội (ở miền Bắc) nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nông nghiệp nước ta chưa có những chuyển biến tích cực. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian qua nay không còn phù hợp. Những hạn chế của nó đã dẫn đến những biểu hiện suy thoái trong phát triển sản xuất, những dấu hiệu khủng hoảng, bất hợp lý bộc lộ ngày càng rõ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Từ thực tiễn kinh tế – xã hội, ở nông thôn đã xuất hiện những nhân tố mới thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo của cán bộ cơ sở, như ở Hải Phòng, Vĩnh Phú. Trên cơ sở thực tiễn “khoán chui”, Đảng ta đã tổng kết và ra “Chỉ thị 100” với nội dung cơ bản là “khoán sản phẩm’, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Chỉ thị 100 đã ”cởi trói” cho phát triển kinh tế nông nghiệp, cải  thiện đời sống nông dân. Tuy mới là giải pháp tình thể, nhưng “Khoán sản phẩm” đã có hiệu quả thực sự. Trong thời gian 1981 – 1985, nhờ hình thức khoán mới, sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 5% so với 2% của thời kỳ 1976 – 1980, sản xuất lương thực tăng bình quân hàng năm 6,5% so với 1,6% của thời kỳ 1976 – 1980. Tổ chức Hội Nông dân cũng ngày càng được quan tâm hơn, ngày 29 tháng 9 năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Quy định việc thành lập Hội đồng của Hội Liên hiệp nông dân tập thể ở từng cấp: Trung ương, tỉnh, huyện; cơ quan Thường trực của Hội đồng gắn với Ban Nông nghiệp của Đảng, là một bộ phận của Ban Nông nghiệp Trung ương, Ban Nông nghiệp tỉnh, thành phố (cả miền Bắc và miền Nam). Đồng thời, quyết định cho ban hành Điều lệ Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam quy định rõ tính chất, mục đích, nhiệm vụ của Hội và tổ chức Hội ở các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Quán triệt tinh thần đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam, ngày 24 tháng 3 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 05/CT-TW về tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất, Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Ngày 01 tháng 3 năm 1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42 – QĐ/TƯ về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam. Tại phiên họp ngày 17 tháng 01 năm 1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam.  Đến nay, Hội Nông dân Việt Nam đã qua VI kỳ Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ Nhất tổ chức từ ngày 27 tháng 3 đến ngày 29 tháng 3 năm 1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 613 đại biểu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95 đồng chí và bầu 17 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Bái – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Hồng Thất, Nguyễn Thành Thơ, Cầm Ngoan, Nguyễn Thị Huệ. Nghị quyết của Đại hội đã khẳng định: Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp nông dân, đoàn kết chặt chẽ với các tổ chức thành viên khác trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết tâm tiến theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. Tại Đại hội này Chủ tịch Hội đồng Nhà nước – Võ Chí Công thay mặt Đảng, Nhà nước đã trao tặng Huân chương Sao Vàng, Huân chương cao quý nhất cho giai cấp nông dân Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Hội Nông dân Việt Nam họp từ ngày 15 tháng 11 đến ngày 19 tháng 11 năm 1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 600 đại biểu. Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào Ban Chấp hành và 14 Ủy viên Ban Thường vụ, đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Nguyễn Đức Triều – Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyễn Thị Huệ, Lò Văn Inh, Mai Thanh Ân (Bảy Khế). Đây là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động”, là Đại hội của trí tuệ và niềm tin, nơi hội tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Hội Nông dân Việt Nam khai mạc từ ngày 17 tháng 11 đến ngày 20 tháng 11 năm 1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 700 đại biểu. Đại hội đã quán triệt nhiệm vụ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban Chấp hành, 19 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Đức Triều – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Diệu Tuyết, Lê Văn Nhẫn, Lê Văn Sang (Hùng Kháng). Đại hội III có nhiệm vụ tiếp tục đổi mới và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội này thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Nước Trần Đức Lương đã trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Hội Nông dân Việt Nam được tổ chức từ ngày 22 tháng 11 đến ngày 25 tháng 11 năm 2003 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Đây làĐại hội ”Đoàn kết – Đổi mới – Dân chủ – Phát triển”.  Tham dự Đại hội có 860 đại biểu. Đại hội đã bầu 120 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Vũ Ngọc Kỳ – Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Diệu Tuyết, Phạm Quang Tôn, Nguyễn Hữu Mai, Lê Hoàng Minh, Hà Phúc Mịch. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ Tám (khóa IV), ngày 26 tháng 02 năm 2007 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Nguyễn Quốc Cường – Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tài chính – Quản trị Trung ương, Bí thư Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Chủ tịch Vũ Ngọc Kỳ nghỉ hưu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Hội Nông dân Việt Nam được khai mạc từ ngày 22 tháng 12 đến ngày 25 tháng 12 năm 2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình – Hà Nội.  Tham dự Đại hội có 1.175 đại biểu. Đại hội đã bầu 124 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường – Ủy viên Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Bùi Thị Minh Hoài – Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Lê Hoàng Minh, Hà Phúc Mịch, Nguyễn Duy Lượng, Lều Vũ Điều. Chủ đề của Đại hội V là: ”Đoàn kết – Đổi mới – Hội nhập –  Phát triển”.Đồng thời đẩy mạnh 3 phong trào thi đua lớn của Hội, là: Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới; Phong trào nông dân tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tháng 4 năm 2011 đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Uỷ viên Trung ương Đảng được Ban Chấp hành Trung ương phân công sang làm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ chín (khoá V) họp tại Hà Nội từ ngày 04 – 05 tháng 7 năm 2012 đã bầu bổ sung 02 đồng chí Phó Chủ tịch Trung ương Hội là đồng chí Lại Xuân Môn, Chánh Văn phòng Trung ương Hội và đồng chí Nguyễn Hồng Lý, Trưởng ban Dân vận Tỉnh uỷ tỉnh Bạc Liêu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Hội Nông dân Việt Nam được khai mạc từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 03 tháng 7 năm 2013 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình – Hà Nội. Đây là Đại hội của tinh thần: “Đoàn kết – Đổi mới – Chủ động – Hội nhập – Phát triển bền vững”.  Tham dự Đại hội có 1.169 đại biểu. Đại hội đã bầu 122 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Nguyễn Duy Lượng, Lều Vũ Điều, Nguyễn Hồng Lý, Lại Xuân Môn. Đại hội  đã xác định các mục tiêu: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, có đủ năng lực tập hợp, đoàn kết, phát huy dân chủ, sức sáng tạo của hội viên, nông dân; tham gia xây dựng và tổ chức nông dân thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh các phong trào thi đua trong nông dân, huy động các nguồn lực hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, giảm nghèo bền vững; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân. Tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn nông thôn. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trình độ của cán bộ, hội viên, nông dân; từng bước xây dựng đội ngũ lao động nông thôn có tác phong công nghiệp, có năng lực quản lý và kỹ năng sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong và ngoài nước, từng bước thực hiện vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Với 11 chỉ tiêu chủ yếu sau đây: Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của Hội cho trên 95% hội viên, nông dân. Phát triển hội viên mới, với trên 80% số hộ nông dân có hội viên nông dân. Cơ sở Hội khá và vững mạnh đạt trên 85%, giảm cơ sở Hội yếu kém xuống dưới 1%. Có 80% cán bộ chủ chốt ở cơ sở Hội có trình độ chuyên môn đạt chuẩn theo qui định; 80% cán bộ chi, tổ Hội được bồi dưỡng, tập huấn về lý luận và nghiệp vụ công tác Hội. 100% chi Hội có quỹ Hội, bình quân từ 30.000đ trở lên/hội viên/năm. Hằng năm có từ 60% số hộ nông dân trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 50% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu Sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp. Quỹ Hỗ trợ nông dân tăng trưởng 15% trở lên/năm. Hằng năm vận động từ 90% số hộ nông dân trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 85% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu Gia đình văn hoá. 100% Hội Nông dân cấp tỉnh, cấp huyện; 80% Hội Nông dân cấp xã tổ chức được hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân có hiệu quả. Hằng năm Hội Nông dân các cấp trực tiếp và phối hợp dạy nghề cho 220.000 nông dân; trong đó tỷ lệ có việc làm đạt 70% trở lên. 80% Hội Nông dân cấp xã hướng dẫn, tổ chức nông dân xây dựng được ít nhất một mô hình kinh tế tập thể có hiệu quả. Hiện nay các cấp Hội Nông dân đang tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, theo Chỉ thị số 05 – CT/TW, ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị, đồng thời đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới. Cụ thể là  tiếp tục đẩy mạnh 3 phong trào thi đua lớn của Hội, đó là: Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới; Phong trào nông dân tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh. Để tăng cường sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành trong những năm qua Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã ký kết chương trình công tác với hơn 40 Bộ, ngành. Công tác đối ngoại của Hội đã đạt được thành tích nổi bật trên các lĩnh vực hợp tác và hữu nghị, nhiều tổ chức quốc tế và tổ chức nông dân của các nước đã đến thăm, học tập, trao đổi kinh nghiệm với Hội Nông dân Việt Nam và giúp Hội thực hiện một số dự án trong lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. Hiện nay Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã có quan hệ với 79 tổ chức Nông dân; Chính phủ; Phi chính phủ nước ngoài (NGOs); Tổ chức Quốc tế (Liên hợp quốc) và 31 Đại sứ quán các nước tại Hà Nội. Phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, Hội Nông dân Việt Nam 86 năm xây dựng và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp Hội tiếp tục tổ chức tốt các phong trào nông dân để làm nên thắng lợi huy hoàng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Hội Nông dân Việt Nam. V. HỘI NÔNG DÂN HẢI PHÒNG TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VÀ TIẾP TỤC GÓP PHẦN QUAN TRỌNG XÂY DỰNG, BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC, THÀNH PHỐ Năm 1930 tổ chức Nông Hội đỏ Hải Phòng – Kiến An được thành lập. Từ đó, qua mỗi thời  kỳ cách mạng, tổ chức Hội Nông dân không ngừng phát triển, tập hợp đông đảo nông dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thành phố và bảo vệ quyền lợi của hội viên. Trong kháng chiến chống Pháp, Nông dân Hải Phòng đã hăng hái tham gia xây dựng các lực lượng vũ trang, rào làng chiến đấu, làm cứu thương, đi dân công tiếp tế cho bộ đội, phá rỡ cầu đường, thực hiện toàn thể kháng chiến, nuôi dưỡng che dấu cán bộ, bộ đội hoạt động trong vựng địch hậu, góp gạo nuôi quân. Hưởng ứng phong trào “Mùa đông binh sỹ”, năm 1953 nông dân Kiến An đã huy động trên 10 triệu đồng Đông Dương và hàng nghìn tặng phẩm gửi ra mặt trận. Nông dân Tiên Lãng, Vĩnh Bảo và nhiều vùng tạm chiếm đã đóng thuế nông nghiệp cho kháng chiến, mỗi năm một tăng (năm 1951 là 2.253 tấn, năm 1952 là 4.470 tấn). Nông dân tích cực tham gia phong trào “Hũ gạo kháng chiến”, phong trào “đấu tranh chống bắt lính, chống thu thuế của địch”, phá âm mưu “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”“Dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam ”. Những đóng góp to lớn của nông dân đã góp phần làm nên trang sử vẻ vang, hào hùng của thành phố. Những địa danh như: An Dương, Cầu Niệm, Tiểu Trà, Cam Lộ, An Lư, Cột Cờ đã trở thành pháo đài kháng chiến; du kích Núi Voi anh dũng, kiên cường; Tiên Lãng phá càn; Đường 5 quật khởi, Hà Sen anh dũng, Đôn Lương kiên cường, Thuỷ Nguyên quật khởi. Đặc biệt là trận tập kích sân bay Cát Bi đã góp phần quan trọng vào thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, chấm dứt ách xâm lược gần 100 năm của thực dân Pháp và bè lũ phong kiến tay sai. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, với ý chí “ Không có gì quý hơn độc lập –  tự do “,  nông dân miền Bắc đã dấy lên phong trào thi đua sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, với khẩu hiệu “ Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt Tay cày, tay súngThóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Những năm (1965-1975) đế quốc Mỹ coi Hải Phòng là một trọng điểm đánh phá miền Bắc, hai lần tiến hành chiến tranh phá hoại, bao vây, phong toả hòng huỷ diệt thành phố. Chính trong khói lửa ác liệt của cuộc chiến tranh, giai cấp Nông dân Hải Phòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, chấp nhận gian khổ hy sinh, vừa đánh giặc vừa sản xuất giỏi, đảm bảo chi viện sức nguời, sức của cho tiền tuyến: 10 vạn gia đình nông dân Hải Phòng đã gửi con em lên đường chiến đấu, hàng vạn người đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sự đóng góp to lớn của giai cấp nông dân về sức người, sức của và ý chí kiên cường bất khuất của họ đó góp phần rất quan trọng, khẳng định vai trò vị trí quan trọng của miền Bắc đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau sẽ mãi mãi ghi nhớ công lao oanh liệt của hàng triệu nông dân ưu tú trong cả nước và quê hương Hải Phòng đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đất nước thống nhất, cả nước cùng đồng lòng quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong phát triển kinh tế đất nước, nông nghiệp luôn được Đảng xác định là mặt trận hàng đầu, đặc biệt những năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Hội Nông dân và giai cấp nông dân phấn khởi tiếp nhận và thực hiện cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế – xã hội; khơi dậy tiềm năng, sức lao động, sáng tạo trong nông dân để phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; Hải Phòng là địa phương đi đầu trong việc thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và hộ gia đình, đây chính là tiền đề để Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm nông nghiệp. Trong những thành tựu to lớn của đất nước đã đạt được trong thời gian qua, thành tựu về nông nghiệp là một trong những lĩnh vực nổi bật, có ý nghĩa quan trọng không chỉ về kinh tế, mà còn góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là trên địa bàn nông thôn; đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực, nay vươn lên không những bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Cùng với sự phát triển về kinh tế, đời sống văn hoá tinh thần, trình độ dân trí, hiểu biết kiến thức pháp luật của nông dân ngày một nâng lên, tạo điều kiện cho nông dân tham gia đóng góp và thực hiện tốt Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở; tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng tổ chức Hội ngày càng vững mạnh; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, truyền thống yêu quê hương đất nước, đoàn kết cộng đồng, thi đua phát triển kinh tế và cùng quyết tâm xây dựng nông thôn mới. Thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với cả nước, Hội Nông dân và giai cấp Nông dân Hải Phòng đã bám sát chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền, vận động nông dân hưởng ứng và đẩy mạnh thực hiện 3 phong trào lớn do Trung ương Hội phát động, đó là: Phong trào vận động nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới; Phong trào nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đồng thời, tham gia tích cực, có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các phong trào khác do Trung ương, thành phố, địa phương phát động. Phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững đã trở thành phong trào thi đua yêu nước sâu rộng của giai cấp nông dân, là phong trào trọng tâm được các cấp Hội tập trung cao chỉ đạo. Nhiều hoạt động phối hợp hỗ trợ của tổ chức Hội như: tập huấn kỹ thuật, tín chấp hỗ trợ vay vốn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, tư vấn cho nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Nhiều mô hình kinh tế trang trại, gia trại, mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản, … mang lại hiệu quả kinh tế cao, thu hút nhiều lao động và tham gia giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc ở các địa phương. Đến năm 2015, có gần 90.000 hộ đăng ký đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp (Trong đó: cấp TW là 451hộ, cấp thành phố là 1939 hộ, cấp huyện là 16.703 hộ, còn lại là cấp cơ s). Kinh tế phát triển, đời sống nông dân được cải thiện, Hội Nông dân các cấp tiếp tục đẩy mạnh vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia vào các chương trình xã hội như: vận động đóng góp xây dựng quỹ “Ngày vì người nghèo”, “Xoá nhà tranh, nhà tạm”, tham gia chương trình phổ cập bậc trung học và nghề. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, các cấp Hội đã vận động cán bộ, hội viên, nông dân tích cực tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn: đóng góp sức người, sức của để làm đường giao thông, kiên cố hoá kênh mương, kéo điện về làng, xây dựng hệ thống nước sạch sinh hoạt, xây dựng và sửa chữa trường học, trạm xá,… Với tinh thần “Tương thân, tương ái”, “Lá lành đùm lá rách” các cấp Hội trong thành phố cũng đã vận động cán bộ, hội viên, nông dân quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt với trị giá hàng trăm tỷ đồng. Vận động hội viên, nông dân quyên góp sửa chữa, xây mới tặng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, Bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo; tặng hàng nghìn xuất quà cho các gia đình thuộc diện chính sách, gia đình hội viên nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; duy trì hình thức phát thưởng cho con hội viên nông dân đạt thành tích xuất sắc trong học tập, vận động thanh niên nông thôn thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự; tích cực tham gia các hoạt động chính sách hậu phương quân đội… Thông qua các hoạt động thiết thực đã góp phần tích cực thực hiện chính sách an sinh xã hội, xây dựng tình đoàn kết trong làng xóm, cộng đồng dân cư, xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh. Song song với việc tổ chức các phong trào hành động cách mạng, công tác xây dựng củng cố tổ chức Hội cũng được quan tâm chú trọng. Đến nay, toàn thành phố có trên 180.000 hội viên, sinh hoạt tại  1.746 chi hội thuộc 189 Hội Nông dân xã, phường, thị trấn tại 15/15 quận, huyện. Đội ngũ cán bộ Hội ngày càng được trẻ hóa, được đào tạo bồi dưỡng về trình độ trên nhiều mặt. Công tác Hội và phong trào nông dân thành phố liên tục nhiều năm được đánh giá là đơn vị dẫn đầu xuất sắc trong cả nước. Năm 2013, giai cấp nông dân và Hội Nông dân thành phố vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì. Kết quả hoạt động của các cấp Hội Nông dân và giai cấp Nông dân thành phố đạt được trong 86 năm qua, luôn  gắn liền với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là Thành uỷ Hải Phòng, chỉ đạo của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam; sự phối hợp có hiệu quả các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức kinh tế – xã hội trong toàn thành phố; cổ vũ động viên của các thế hệ cán bộ Hội các thời kỳ; nhất là cố gắng khắc phục mọi khó khăn, ý thức chính trị và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ, hội viên nông dân thành phố. Ôn lại truyền thống vẻ vang của tổ chức Hội Nông dân Việt Nam và đứng trước yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Hội Nông dân và giai cấp Nông dân Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng cũng còn nhiều trăn trở: sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, lạc hậu, năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, sức canh tranh chưa cao, đời sống của nông dân tuy có được cải thiện, song nhìn chung vẫn còn khó khăn, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp ; đầu tư của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn còn ở mức thấp trong khi thu nhập và đời sống nông dân còn khó khăn nhất là các vùng xa, vùng sâu; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết thoả đáng, đồng bộ như: giải quyết việc làm, điều kiện học hành và chăm sóc sức khoẻ; vấn đề tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường ở nông thôn; giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo,… đang là những vấn đề cần quan tâm có tác động sâu sắc đến tâm tư tình cảm, nguyện vọng chính đáng của nông dân. Hoạt động của Hội Nông dân những năm qua tuy có nhiều chuyển biến tiến bộ. Song, so với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong điều kiện, bối cảnh mới thì cần phải tiếp tục cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết 32/NQ-TW, Kết luận số 72 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương Đảng (khóa X)  về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn ”, Kết luận số 61-KL/TW ngày 03/12/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đề án “Nâng cao vai trò trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020”, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và các chương trình hành động về phát triển kinh tế – xã hội nông thôn và công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới, thời gian tới Hội Nông dân thành phố tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trên cơ sở yêu cầu thực tiễn, nhiệm vụ chính trị của thành phố và nguyện vọng chính đáng của giai cấp nông dân. Trước mắt, quyết tâm tập trung làm  tốt một số nhiệm vụ: Thứ nhất là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tuyên truyền, quán triệt và hướng dẫn nông dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nướcChương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới . Tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, trung thành với Đảng; nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước và thành phố, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thứ hai là: Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong giai cấp Nông dân. Hướng nội dung phong trào thi đua vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, nông dân. Đẩy mạnh các hoạt động liên kết phối hợp với các ngành, các doanh nghiệp để hỗ trợ giúp đỡ nông dân về vốn, khoa học kỹ thuật, đổi mới cách nghĩ, cách làm, thị trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, phối hợp đào tạo nghề cho nông dân; phấn đấu tăng nhanh hộ khá giàu và giảm hộ nghèo. Thứ ba là:. Nâng cao chất lượng các hoạt động xã hội như vận động nông dân thực hiện tốt cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, đăng ký xây dựng “Gia đình nông dân no ấm, bình đẳng, tiến bộ”; xây dựng làng, tổ dân phố văn hoá; các hoạt động giúp nông dân nghèo cải thiện điều kiện ăn ở; giúp các cháu học sinh nghèo để vượt khó vươn lên; vận động cán bộ, hội viên nông dân thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang và lễ hội, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Tuyên truyền vận động hội viên, nông dân thực hiện tốt:  Công tác Bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn giao thông, công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình; phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, HIV/AIDS; tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh… Thứ tư là:. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng đa dạng và thiết thực, tăng cường các hình thức tập hợp nông dân gắn với việc nâng cao chất lượng hội viên, chất lượng đội ngũ cán bộ Hội, chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng và thực hiện tốt nghĩa vụ của người hội viên, nông dân. Thứ năm là: Tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh; triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị; tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, các hoạt động thiết thực tạo không khí đoàn kết, phấn khởi trong giai cấp nông dân góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 15, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12. Hướng về kỷ niệm 86 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2016), phấn khởi, tự hào về truyền thống của tổ chức Hội Nông dân, hơn bao giờ hết cán bộ, hội viên nông dân lại càng cố gắng, phấn đấu thi đua; tranh thủ những thuận lợi, chủ động khắc phục mọi khó khăn, vượt qua thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần tô thắm trang sử truyền thống vẻ vang của Hội Nông dân Việt Nam và truyền thống của Hội Nông dân thành phố; thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội VI Hội Nông dân Việt Nam, Nghị quyết Đại hội VIII Hội Nông dân thành phố, nhiệm kỳ 2013 – 2018; cùng Đảng bộ, quân và nhân dân thành phố quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.]]>

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on linkedin
  • Tin mới đăng

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 86 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM (14/10/1930 – 14/10/2016)

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on linkedin
  • Tin mới đăng